Bệnh nhân ĐTĐ thường có 2 có hai nhóm biến chứng chính: Nhóm mạch máu lớn và nhóm mạch máu nhỏ. Biến chứng mạch máu lớn bao gồm bệnh mạch vành, bệnh tai biến mạch não và bệnh mạch máu chi dưới. Đây là nguyên nhân chính gây ra tử vong ở các người bệnh ĐTĐ, làm tăng tỷ lệ tử vong, tăng tỷ lệ tử vong từ 2 đến 4 lần so với người bình thường, đồng thời rút ngắn tuổi thọ người bệnh ĐTĐ từ 9 đến 12 năm.

Bệnh Đái tháo đường (ĐTĐ) đang gia tăng chóng mặt trên toàn cầu, đi kèm theo đó, các biến chứng về tim mạch và thần kinh ngoại biên đang âm thầm đe dọa sức khỏe và tính mạng của người bệnh ĐTĐ type 2. Ảnh minh họa: Internet
Biến chứng tim mạch - mối nguy hiểm cận kề
Theo ThS. BSCK2 Văn Đức Hạnh - Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai, từ thực tiễn lâm sàng và các khuyến cáo quốc tế, ở các người bệnh ĐTĐ, mục tiêu điều trị lâu dài không còn dừng ở việc kiểm soát glucose máu mà phải là phòng ngừa các biến cố tim mạch.
BS Hạnh chỉ rõ 4 trụ cột quan trọng trong điều trị người bệnh ĐTĐ là: Kiểm soát đường huyết, kiểm soát huyết áp, kiểm soát lipid máu và sử dụng thuốc có lợi cho tim mạch. Cần phân tầng nguy cơ tim mạch ở người bệnh ĐTĐ típ 2 để có mục tiêu điều trị cụ thể và dự báo sớm nguy cơ bệnh lý tim mạch, thận, chuyển hoá ngay cả ở những người trẻ tuổi. Đặc biệt, statin là nhóm thuốc chủ đạo, khuyến cáo đầu tay trong điều trị rối loạn lipid máu, kiểm soát LDL-C, và phòng ngừa tiên phát, thứ phát các biến cố tim mạch bất lợi lớn, bao gồm nhồi máu cơ tim, đột quỵ, tử vong do nguyên nhân tim mạch và các biến cố tim mạch khác.
Bác sĩ Hạnh khuyến nghị: Việc này cần bắt đầu sớm, cá thể hoá và giám sát chặt chẽ trong suốt quá trình điều trị.
Biến chứng thần kinh ngoại biên - phiền toái vô hình
Nhóm biến chứng ĐTĐ thứ hai là biến chứng mạch máu nhỏ, biểu hiện ở mắt, thận, thần kinh ngoại biên cũng rất đáng sợ, gây ảnh hưởng đến sức khỏe, chất lượng cuộc sống và khả năng lao động của người bệnh.
“Thống kê cho thấy, có đến 60% bệnh nhân ĐTĐ mắc bệnh lý thần kinh ngoại biên không được chẩn đoán. “Các triệu chứng như ngứa ran, đau rát, cảm giác như dao đâm… thường không được bệnh nhân nhận biết hoặc bị bỏ qua khi đi khám”, BSCKII Bùi Phương Thảo, Phó Khoa Nội tiết - Đái tháo đường, Bệnh viện Bạch Mai chỉ ra.
BSCKII Thảo nhấn mạnh thêm: “Đau thần kinh ngoại biên là một trong những biến chứng mạn tính phổ biến nhất của ĐTĐ. Đây là biến chứng không chỉ làm suy giảm chất lượng sống nghiêm trọng mà còn dẫn đến tàn phế nếu không được chẩn đoán và điều trị sớm, gánh nặng cao hơn rất nhiều so với các bệnh lý đau mãn tính khác”. Theo các báo cáo, chi phí điều trị cho bệnh nhân có đau thần kinh ngoại biên cao gấp 5 lần so với người chỉ mắc ĐTĐ. Đây không chỉ là gánh nặng cá nhân mà còn là vấn đề của toàn hệ thống y tế.
“Chúng tôi chứng kiến những bệnh nhân bị biến chứng thần kinh ngoại biên do ĐTĐ đau đớn đến mức mất ngủ triền miên, thậm chí có người vì quá đau mà nghĩ đến việc tự tử”. TS. BS Nguyễn Quang Bảy, Trưởng khoa Nội tiết - Đái tháo đường, Bệnh viện Bạch Mai chia sẻ thêm.
Loét, nhiễm trùng bàn chân do biến chứng thần kinh ngoại biên được coi là “nỗi ám ảnh” của các bác sĩ nội tiết. TS. BS Bảy cho biết: “95% bệnh nhân nằm viện trên một tháng tại khoa Nội tiết - Đái tháo đường là do loét bàn chân”. Điều trị các ca này thường phức tạp, tốn kém, và ít khi đem lại hiệu quả toàn diện.
Theo khuyến cáo của Hiệp hội ĐTĐ Hoa Kỳ (ADA) và Bộ Y tế Việt Nam, tất cả bệnh nhân ĐTĐ nên được tầm soát biến chứng thần kinh ngoại biên hàng năm, không chỉ để cải thiện triệu chứng mà còn để ngăn ngừa những hậu quả lâu dài. Về điều trị, quản lý bệnh lý thần kinh ngoại biên cần thực hiện theo 3 nền tảng chính gồm: Kiểm soát tối ưu đường huyết, điều trị theo cơ chế bệnh sinh và giảm đau triệu chứng cho bệnh nhân.
Dấu hiệu bệnh tiểu đường dễ nhận biết
Những dấu hiệu bệnh tiểu đường dễ nhận biết đến từ nguyên nhân lượng đường trong máu cao hơn mức bình thường. Đối với tiểu đường type 2, các biểu hiện có thể nhẹ hoặc khó nhận thấy. Một số người không biết mình mắc bệnh cho đến khi gặp phải tổn thương lâu dài do bệnh gây ra.
Với tiểu đường type 1, các triệu chứng thường xảy ra nhanh chóng, trong vài ngày hoặc vài tuần. Biểu hiện tiểu đường type 1 nghiêm trọng hơn nhiều so với bệnh tiểu đường type 2.
Dấu hiệu sớm của bệnh tiểu đường
Bệnh đái tháo đường type 1 và type 2 cùng có chung một số dấu hiệu cảnh báo sớm (đói và mệt mỏi; đi tiểu thường xuyên và liên tục khát nước; khô miệng và ngứa da; nhìn mờ) và các dấu hiệu khác biệt, bao gồm:
Đói và mệt mỏi
Sau khi thức ăn được thu nạp, cơ thể chuyển đổi thức ăn thành glucose – nguyên liệu để các tế bào sử dụng để tạo năng lượng. Tuy nhiên, tế bào còn cần insulin để hấp thụ glucose. Nếu cơ thể không sản xuất đủ hoặc nếu các tế bào kháng lại insulin do cơ thể tạo ra, glucose sẽ không thể đi vào và tạo năng lượng. Hệ quả, cơ thể rơi vào trạng thái đói và mệt mỏi hơn bình thường.
Đi tiểu thường xuyên và liên tục khát nước
Người bình thường thường đi tiểu từ 4-7 lần trong 24 giờ, nhưng những người mắc bệnh đái tháo đường có thể đi tiểu nhiều hơn. Nguyên nhân, thông thường, cơ thể sẽ tái hấp thu glucose khi đi qua thận.
Tuy nhiên, khi lượng đường trong máu tăng cao, thận có thể không làm tốt công đoạn này, cơ thể vì thế sẽ tạo ra nhiều nước tiểu hơn. Kết quả, người bị đái tháo đường sẽ đi tiểu thường xuyên hơn, kéo theo biểu hiện khát nước liên tục. Một vòng luẩn quẩn sẽ diễn ra: uống nhiều hơn và đi tiểu nhiều hơn. Đây được xem là dấu hiệu tiểu đường rõ ràng.
Khô miệng và ngứa da
Vì cơ thể đang tập trung sử dụng chất lỏng để tạo ra nước tiểu, nên độ ẩm không đủ để dùng cho những bộ phận khác. Do đó, tình trạng mất nước và khô miệng có thể xảy ra. Da không được cung cấp nước sẽ trở nên khô, dễ kích ứng và ngứa ngáy.
Nhìn mờ
Tình trạng thay đổi lượng chất lỏng trong cơ thể cũng là nguyên nhân khiến thủy tinh thể bị sưng lên. Biểu hiện này ảnh hưởng đến tầm nhìn khiến hình dạng của vật trở nên méo mó, suy giảm độ lấy nét.
Triệu chứng bệnh tiểu đường type 2
Dễ bị nhiễm trùng và nhiễm nấmCả nam và nữ mắc bệnh đái tháo đường đều có thể mắc phải các bệnh liên quan đến nhiễm trùng nấm men. Nấm men ăn glucose, vì vậy chúng sẽ phát triển nhanh ở người có mức đường cao. Nhiễm trùng có thể xảy ra ở những bộ phận có nếp gấp nhờ hai yếu tố ấm và ẩm như rãnh giữa các ngón tay, ngón chân; dưới ngực, trong hoặc xung quanh cơ quan sinh dục.
Vết loét hoặc vết cắt lâu lành
Khi lượng đường trong máu cao diễn ra trong một thời gian dài có thể ảnh hưởng đến lưu lượng máu và gây tổn thương dây thần kinh. Điều này khiến cơ thể khó chữa lành vết thương.
Tê bì, mất cảm giác ở chân
Cảm giác đau hay tê bì chân được xem là một biểu hiện rõ rệt nhất của tình trạng tổn thương thần kinh, nguyên nhân do glucose tăng cao trong máu.
Tình trạng glucose tăng cao không chỉ ảnh hưởng đến tay chân mà còn ảnh hưởng đến các dây thần kinh khác của cơ thể như dây thần kinh cảm giác nóng, lạnh và đau; dây thần kinh vận động (bệnh lý thần kinh ngoại biên) hay dây thần kinh kiểm soát các hoạt động của dạ dày, nhịp đập của tim… (bệnh lý thần kinh tự chủ).
Tổn thương thần kinh là biểu hiện đặc trưng của bệnh thần kinh đái tháo đường. Đây cũng là biến chứng thường gặp ở các bệnh nhân đái tháo đường type 1 và 2.
Triệu chứng bệnh tiểu đường type 1
Sụt cân bất thường
Khi không thể lấy năng lượng từ thức ăn, cơ thể sẽ bắt đầu “kích hoạt” quá trình đốt cháy cơ và chất béo để lấy năng lượng. Cân nặng có thể giảm dù bạn không thay đổi thực đơn dinh dưỡng.
Buồn nôn và nôn
Khi cơ thể chuyển hóa chất béo để lấy năng lượng, một lớp hợp chất hữu cơ (ketone) sẽ được sản sinh. Những chất này có thể tích tụ trong máu, làm cho máu có tính axit.
Khi tích tụ đến một mức nguy hiểm, nhiễm toan ceton do tiểu đường có thể xảy ra, có thể đe dọa tính mạng. Buồn nôn và nôn có thể được xem là biểu hiện của tình trạng nhiễm toan ceton. Người bệnh đái tháo đường có thể cần thực hiện xét nghiệm ketone thường xuyên theo chỉ định của bác sĩ.
Gặp vấn đề v ề giấc ngủ (khó ngủ, ngưng thở khi ngủ…)
Người mắc bệnh đái tháo đường thường có chất lượng giấc ngủ kém, bao gồm tình trạng khó đi vào giấc ngủ hoặc buồn ngủ. Một số ngủ quá nhiều, số khác lại gặp khó khăn để ngủ đủ giấc. Ngoài ra người đái tháo đường còn gặp phải một vài rắc rối đối với giấc ngủ, như:
Chứng ngưng thở khi ngủ: Đây là triệu chứng liên quan đến việc ngừng hoạt động thở trong khi ngủ. Ngưng thở khi ngủ dẫn đến nồng độ oxy trong máu thấp do đường hô hấp trên bị tắc nghẽn trong lúc ngủ, ngăn không khí đến phổi. Mức oxy trong máu xuống thấp cũng gây ảnh hưởng đến chức năng não và tim. Có đến 2/3 số người thừa cân bị mắc chứng ngưng thở khi ngủ.
Hội chứng này cũng làm thay đổi các giai đoạn của giấc ngủ. Một số nghiên cứu đã nhận thấy mối liên kết giữa tình trạng xáo trộn giấc ngủ với suy giảm hormone tăng trưởng. Hormone này vốn đảm nhiệm vai trò hỗ trợ quá trình tăng trưởng của cơ thể, sửa chữa tế bào và trao đổi chất. Khi rơi vào trạng thái suy giảm, hệ lụy kéo theo là tình trạng tăng mỡ toàn thân, hình thành mỡ bụng và khó tạo cơ. Ngoài ra, hội chứng ngưng thở khi ngủ cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của bệnh đái tháo đường và tình trạng kháng insulin xảy ra ở người bệnh.
Bệnh lý thần kinh ngoại biên, hoặc tổn thương các dây thần kinh ở bàn chân và chân: Đây cũng là nguyên nhân khiến giấc ngủ bị gián đoạn. Tổn thương dây thần kinh này có thể gây mất cảm giác ở bàn chân hoặc các triệu chứng như ngứa ran, tê, rát và đau.Hội chứng chân không yên: Là một chứng rối loạn giấc ngủ với điểm đặc trưng là sự kích thích dữ dội ham muốn di chuyển chân, người bệnh khó có thể cưỡng lại cảm giác này. Rối loạn giấc ngủ này thường đi kèm với biểu hiện ngứa ran, tê, rát hoặc đau chân, khiến người bệnh khó đi vào giấc ngủ hoặc giấc ngủ không thể diễn ra.
Hạ và tăng đường huyết cao: Cả hai tình trạng đường huyết này đều ảnh hưởng đến giấc ngủ của người bệnh đái tháo đường. Nếu tăng đường huyết khiến người bệnh cảm thấy khó chịu, bất an, nóng nực thì hạ đường huyết gây cảm giác đói, chóng mặt, hoa mắt, vã mồ hôi. Những biểu hiện này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giấc ngủ hoặc khó khăn khi vào giấc.
Ngủ ngáy: Tình trạng ngủ ngáy có thể đến từ nguyên nhân béo phì hoặc thu nạp nhiều chất béo. Béo phì làm tăng nguy cơ mắc phải tình trạng ngưng thở khi ngủ, tiểu đường loại 2, bệnh tim, tăng huyết áp, viêm khớp và đột quỵ.
Hoặc